Thể tùng quả hay con mắt thứ 3 từ lâu đã được giới khoa học công nhận. Người khai mở con mắt thứ 3 thường có thể nhìn thấy được rất nhiều điều kỳ diệu.
- Cao tăng chuyển sinh thời Nam Tống, chứng thực chuyện luân hồi chuyển kiếp
- Diêm Vương phán xử 5 vị hòa thượng: Vì sao không được tùy tiện giải thích kinh Phật
Từ lâu giới khoa học đã công nhận sự tồn tại của con mắt thứ 3, coi nó là một con mắt bị thoái hóa. Tuy nhiên, một số người tu luyện lại có thể đả thông được con mắt này và nhìn được những sự việc trong không gian khác. Dưới đây là lời tự thuật của một cao tăng đã khai mở con mắt thứ 3. Trong câu chuyện có thể chứa nhiều điều huyền bí khó lý giải, bạn đọc nếu không tin thì chỉ nên coi như đang đọc một câu chuyện huyền thoại; không nên có tâm phỉ báng mà tạo nghiệp cho chính mình.
Nội dung chính
Xuất gia khi còn trẻ
Trước hết tôi xin giới thiệu về mình một chút, tôi năm nay (2011) đã 46 tuổi rồi; tôi xuất gia làm tăng đã hơn 20 năm. Quê tôi ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, nhưng tôi lại xuất gia tại một ngôi chùa ở Miến Điện. Quê nhà tôi rất kính ngưỡng Phật Pháp, gần như nhà nào cũng tín Phật. Nếu như nhà nào có người xuất gia làm tăng thì toàn bộ gia tộc người này đều sẽ cảm thấy rất tự hào.
Theo như mẹ tôi kể, lúc tôi vừa đầy tháng thì đã được thọ giới để trở thành đệ tử của Phật. Tôi xuất gia năm 1990, lúc đó là 25 tuổi; khi đó con trai lớn của tôi đã được 8 tuổi. Vào ngày tôi xuống tóc, mọi người trong thôn đều đến chúc mừng; vợ của tôi cũng rất vui lòng. Ở chỗ tôi có phong tục như thế này, phàm là những ai xuống tóc đi tu thì vợ con của họ đều sẽ được cả làng chăm sóc tốt.
Ngôi chùa mà tôi xuất gia rất nhỏ, thêm cả tôi nữa thì chưa đến 10 người. Sư Phụ của tôi là một hòa thượng rất già; lúc bình thường ông rất ít khi nói chuyện, nhưng người dân trong làng đều rất tôn kính ông. Nhờ sự chỉ bảo của sư phụ, tôi đã bắt đầu bước vào cuộc sống tu hành. Ngôi chùa của tôi thuộc về Phật giáo tiểu thừa; chỉ coi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là tổ tôn, còn những vị Phật hay Bồ Tát khác thì đều không thừa nhận.
Không biết chữ nhưng lại có thể dễ dàng nhập định
Cuộc sống tu hành về cơ bản thì như thế này: Trồng trọt, ăn cơm, ngồi thiền, tụng kinh, ngoài ra thì cũng không còn gì khác nữa. Nhưng vì tôi không biết chữ, nên xem không hiểu Kinh Phật, chuyện tụng kinh thì coi như là làm không được. Tuy vậy sư phụ không ép tôi phải biết chữ; ông nói không biết thì có khi lại hay. Ông chỉ yêu cầu tôi tuân thủ giới luật, đả tọa tham thiền, miễn cho tôi việc tụng kinh. Về sau này thì tôi biết chữ, nhưng đó là do cơ duyên khác dẫn đến.
Phật giáo tiểu thừa chúng tôi là thông qua trì giới nhiếp tâm; từ nhiếp tâm mà dẫn tới định; từ nhập định mà khai mở trí huệ. Có một điều lạ là, sư huynh, sư đệ, thậm chí cả sư phụ của tôi nhập định rất khó khăn; một năm có khi chỉ nhập định được mấy lần. Nhưng tôi chỉ sau 3 tháng tu hành thì đã có thể nhập định trong lúc ngồi thiền.
Tôi biết nhiều cư sĩ tại gia cũng ngồi thiền, nhưng không mấy ai có trải nghiệm nhập định. Thực ra nhập định là như thế này: Mọi người ngồi xếp bằng ở đó, tiêu trừ tạp niệm, dần dần tiến vào trạng thái tĩnh lặng hoàn toàn. Trong trạng thái tĩnh lặng này, công năng cảm quan của thân thể đều mất hết; bản thân cảm thấy mới ngồi đó mấy phút hoặc mấy giây, nhưng khi xuất định thì đã thấy trôi qua mấy tiếng đồng hồ rồi. Sư Phụ nói tôi có thể nhập định mau chóng như vậy chính là nhờ không biết chữ.
Khai mở con mắt thứ 3
Mùa hè năm 1991, tôi xuất gia đã được hơn 1 năm. Một buổi tối nọ, dưới sự dẫn dắt của sư phụ, toàn bộ hòa thượng trong chùa ngồi vây quanh thành một vòng tròn trước pháp tượng của Phật Thích Ca; bất giác tôi nhập định. Lần này tôi cảm giác là mình đã nhập định 1 tiếng đồng hồ; nhưng khi xuất định thì các sư huynh nói rằng tôi đã ngồi ở đó suốt 7 ngày.
Hơn nữa trong 7 ngày này, trên đầu tôi cứ có một vầng sáng bảy màu lưu chuyển, ngày đêm không ngừng nghỉ; mọi người dùng mắt thường cũng có thể nhìn thấy. Vầng sáng này đến từ đâu? Không ai có thể nói rõ được.
Mấy ngày sau, tôi đột nhiên phát hiện mình nhắm mắt vẫn có thể nhìn thấy đồ vật; hơn nữa còn nhìn được rõ hơn là khi mở mắt. Tôi thỉnh giáo sư phụ thì ông nói rằng tôi đã khai mở thiên nhãn thần thông (con mắt thứ 3), là chuyện tốt.
Nhìn lại được tiền kiếp
Từ đó tôi càng tu luyện tinh tấn hơn. Đến đầu năm 1992, có một buổi sáng sớm khi tôi bái lạy trước tượng Phật, tôi đột nhiên phát hiện ra pháp tượng của Đức Phật Thích Ca phát ra ánh hào quang chói lọi; đồng thời tôi cảm thấy một luồng nhiệt giống như lửa từ đỉnh đầu của tôi tràn vào cơ thể; dần dần tràn khắp toàn thân; tôi tiến nhập vào một trạng thái mơ hồ, dường như thời gian ngưng đọng lại.
Cảm giác đó vô cùng mỹ diệu, giống như là tắm nước nóng trong mơ vậy. Tôi cảm thấy mình đột nhiên đại ngộ; thiên nhãn thông của tôi cũng tiến thêm một bước. Ngay lúc đó, tôi nhìn thấy pháp thân của Phật Thích Ca ở bên trong tượng Phật. Chưa hết, tôi còn nhớ lại được những sự tình trong nhiều kiếp trước.
Thì ra trong hai kiếp trước tôi đều là hòa thượng xuất gia tu hành; nhưng vì nghiệp lực tích tụ nhiều đời nhiều kiếp nên tu không thành chánh quả. Tuy vậy, mỗi lần trước lúc viên tịch tôi đều phát thệ đời sau sẽ tiếp tục tu hành; vì vậy nên đời này tôi lại đi vào cửa Phật và tiếp nối duyên xưa.
Nhờ sự tu hành trong hai kiếp trước, nên nghiệp của tôi đã được tiêu đi rất nhiều, tích được vô lượng công đức; vì vậy lần này tu hành mới dễ dàng như vậy. Đây là điều mà một người tu hành bình thường không cách nào so sánh được.
Đức Phật không còn quản nhân gian
Dựa vào căn cơ và hồng nguyện 3 kiếp, đời này tôi chỉ cần tu luyện kiên định thì nhất định sẽ thành chánh quả. Đáng buồn thay! Tôi vừa nhớ lại được chuyện đời trước thì Pháp thân của Phật Thích Ca khai thị cho tôi, Ngài nói rằng Pháp mà Ngài truyền đã không còn được nữa rồi; vốn không còn có thể độ nhân được nữa; càng không thể giúp người ta tu thành chánh quả. Hơn nữa Ngài cũng sắp buông bỏ thế gian; không còn quản chuyện của nhân gian nữa.
Nghe tin dữ này, lòng tôi không khỏi đau đớn; hai hàng nước mắt của tôi chảy xuống không ngừng. Tôi hỏi Đức Phật, nếu Ngài buông bỏ cõi người thì ai sẽ trông coi hóa độ cho những đệ tử tín phụng như chúng tôi đây? Pháp thân của Đức Phật Thích Ca nói, người này đi thì tự nhiên sẽ có người khác đến; trong tám vạn bốn nghìn pháp môn, tự nhiên sẽ có con đường hóa độ các con đến bờ bên kia của Niết Bàn. Nói xong thì Pháp thân liền biến mất và không thấy đâu nữa.
Tôi đem tình huống Đức Phật nói kể lại với sư phụ và những người khác. Sư phụ hỏi tôi dự định như thế nào; tôi đắn đo hồi lâu rồi nói với sư phụ rằng tôi sẽ đi vân du; tôi sẽ đi tìm Pháp, tìm con đường thông đến bờ bên kia của Niết Bàn.
Khai mở con mắt thứ 3 cũng không có gì là thần bí
Ở trên tôi có nói về thiên nhãn thông, tôi biết nhiều người sẽ cảm thấy hứng thú với điều này; vì vậy tôi sẽ nói thêm một chút. Cái được gọi là thiên nhãn thông (thiên mục; con mắt thứ 3) thực ra chính là thể tùng quả của con người; cũng chính là Nê hoàn cung mà Đạo gia nói đến. Ai cũng có thể tùng quả, thông qua tu luyện dùng năng lượng gia trì, đều có thể mở được thiên nhãn; việc này cũng không có gì là thần bí cả.
Dùng thiên nhãn nhìn thế giới thì sẽ rất khác khi dùng con mắt thịt này; đây không phải là điều mà người bình thường có thể tưởng tượng được. Nếu dùng mắt thịt để nhìn đồ vật, thì đứng một chỗ chỉ có thể nhìn được một phương hướng, một tầng bề mặt. Nhưng nếu dùng thiên nhãn thì toàn bộ phương vị, lập thể, cho đến hết thảy tín tức đều có thể nhìn thấy.
Ví dụ như khi nhìn một người, mọi người dùng mắt thịt thì chỉ có thể nhìn được một khía cạnh của anh ta; hơn nữa chỉ là ở bề mặt. Còn nếu dùng thiên nhãn thì có thể nhìn rõ từng tế bào của người này; ngay cả trong tâm anh ta đang nghĩ gì thì cũng đều có thể nhìn thấy.
Nhớ lại ký ức tiền kiếp, đột nhiên biết chữ
Sau khi mở thiên mục, đặc biệt là sau khi nhớ lại những việc trước đây, tôi liền biết chữ. Một quyển sách dù không cần mở ra, tôi chỉ cần đảo mắt một cái thì đã biết hết. Bây giờ, những cái gọi là khoa học kỹ thuật cao, trong mắt tôi đều thấy rất đơn giản; nhìn một cái là có thể hiểu hết.
Thiên nhãn trong Phật gia chia thành 5 tầng thứ: Nhục nhãn thông, thiên nhãn thông, huệ nhãn thông, Pháp nhãn thông, Phật nhãn thông. Khi tôi vừa mở thiên mục thì chính là ở tầng nhục nhãn thông; đến khi đi vân du thì là ở tầng Pháp nhãn thông.
Ở tầng Pháp nhãn thông, tôi có thể nhìn được toàn bộ tín tức của người và động vật. Hơn nữa tôi có thể nhìn được lịch trình 3 đời quá khứ của một sinh mệnh; có thể nhìn thấy nhân duyên 3 đời trong quá khứ. Nhưng tiếc là con đường tương lai của sinh mệnh thì tôi lại không nhìn thấy.
Khai mở con mắt thứ 3 không phải là mê tín
Thực ra thiên nhãn thông cũng không có gì gọi là mê tín cả. Nếu dùng khoa học hiện đại thì vẫn có thể lý giải được. Ví dụ như mắt người có thể nhìn thấy những ánh sáng nhìn thấy được; còn những tia X, tia gamma gì đó thì con người cũng không thể nhìn thấy.
Mà những tia mạnh hơn gamma thì nhiều vô kể, có thể nói là vô hạn; hơn nữa ở chỗ nào cũng có. Thể tùng quả có thể nhìn thấy và cảm nhận được những tia sáng này. Vì vậy mà dùng thiên mục là có thể nhìn xuyên qua thân thể người và nhìn được những thứ mà mắt thường nhìn không thấy. Một người bình thường thì thể tùng quả sẽ bị phong bế. Chỉ có thông qua tu luyện thì mới có thể đả khai loại phong bế này.
Vậy thì tại sao tôi biết người khác đang nghĩ gì? Làm sao biết được nhân duyên 3 đời? Việc này thì lại càng đơn giản.
Nhiều người đều đã biết, đại não con người có khoảng 90% là bị phong bế; cơ bản là không sử dụng được. Những người thiểu năng trí tuệ thì bị phong bế nhiều hơn một chút, có thể lên đến 95%. Những người thông minh thì bị phong bế ít hơn, có thể chỉ bị phong bế 85%. Nhưng lại có những người mà não bộ bị cắt bỏ mất một nửa, nhưng chỉ số thông minh lại không bị ảnh hưởng chút nào; vẫn có thể sinh hoạt bình thường.
Khai mở con mắt thứ 3 nhìn thấy đại não là nơi tồn trữ ký ức
Vậy thì phần đại não kia dùng để làm gì? Tôi xin nói cho mọi người biết, đó là để tồn trữ ký ức; hết thảy ký ức đời đời kiếp kiếp của mọi người đều được tồn trữ trong đó; thậm chí tín tức của toàn bộ vũ trụ đều có trong đó, chỉ là bị phong bế lại; vậy nên mọi người mới không thể sử dụng được.
Những tín tức này, nếu dùng thiên mục mà nhìn thì sẽ thấy là hình ảnh rõ ràng, cứ như đang xem ti vi vậy; còn có cả âm thanh nữa. Trong tâm nghĩ gì thì sẽ hình thành hình ảnh trong đại não. Vậy nên người ta nghĩ cái gì, những trải nghiệm trong quá khứ hay của đời trước, thì người có thiên nhãn thông đều có thể nhìn thấy một cách rõ ràng.
Thiên nhãn mở rồi, ngoài việc có thể thấy những điều người bình thường không thấy ra, tôi còn có thể nhìn thấy một số Thần Tiên, quỷ quái, linh thể; hơn nữa còn có thể câu thông với họ. Nhưng thường là tôi không hiểu được họ; bởi tôi là người đã từng nghe qua Phật Pháp, không dễ lý giải được những Thần linh ở tầng thứ tương đối thấp này.
Có thể mọi người sẽ thấy hiếu kỳ, Thần Tiên, quỷ quái tồn tại theo dạng thức như thế nào? Hình thức rất đa dạng, phương thức tồn tại các dạng đều có, muôn màu muôn vẻ; nhưng nếu so họ với các bậc giác giả thì kém rất xa. Vậy nên cơ bản tôi cũng không quan tâm đến họ.
Tại sao động vật không được tu luyện?
Có người có thể biết, rằng động vật không được phép nghe Pháp; cũng không cho phép chúng tu luyện. Tại sao lại như vậy? Bởi vì động vật không có các nhân tố thiết yếu cần phải có để tu luyện Phật Pháp; cũng chính là không có được thân thể người.
Vậy con người và động vật rốt cuộc khác nhau ở chỗ nào? Có hai điểm, một là đan điền, hai là nê hoàn cung – thể tùng quả. Trong đan điền có tồn trữ khí tiên thiên của vũ trụ; loại khí này siêu việt hơn cả khí âm dương, còn được gọi là nguyên khí, vô cùng trân quý.
Còn thể tùng quả, nó chính là hình ảnh thu nhỏ của đại thiên thế giới; linh hồn của con người chính là bị phong ấn ở chỗ này; bên trong còn có thụ ấn của Phật để lại trước khi chuyển sinh vào cõi người. Tại sao nói ai cũng có Phật tính? Chính là nhờ có cái thụ ấn này; đây cũng là nơi tồn tại bản tính lương thiện của con người.
Vì có 2 thứ trên nên con người mới có thể tu luyện; mới xứng đáng được nghe Phật Pháp. Thân người sở dĩ trân quý cũng chính là ở điểm này. Nói con người là anh linh của vạn vật cũng chính bởi con người có thụ ấn mà Phật để lại.
Động vật không mang bản tính lương thiện
Động vật thì không có thể tùng quả, cũng không có đan điền; vậy nên nó không có mang bản tính lương thiện, không xứng đáng được nghe Phật Pháp. Nếu không tin thì mọi người có thể xem mẫu giải phẫu của một số động vật; dù là con vật nào thì cũng không có thể tùng quả; thứ này chỉ con người mới có thôi.
Nói đến đây, tôi liền nhớ đến thuyết tiến hóa của Darwin; ông ấy nói con người là từ khỉ tiến hóa mà thành, đây hoàn toàn là ăn nói xằng bậy. Các nhà khoa học, y học, giải thích thể tùng quả là con mắt thứ 3 đã bị thoái hóa của con người. Vậy tại sao con khỉ, tinh tinh, vượn, khỉ đầu chó, cho đến hết thảy các loài động vật linh trưởng, đều chỉ có 2 con mắt? Tại sao chúng lại không có 3 con mắt? Hơn nữa khi giải phẫu thì chúng đều không có thể tùng quả? Điều này giải thích như thế nào đây?
Tôi xin nói rõ cho mọi người biết rằng, tôi thông qua thiên nhãn đã nhìn thấy tình huống chân thực, Darwin thực ra là quỷ vương chuyển sinh vào cõi người; mục đích là để làm loạn nhân gian. Thuyết tiến hóa mà ông ta đưa ra chủ yếu là để đả kích vào tín ngưỡng của con người với Thần Phật; để cho mọi người tin rằng mình là từ khỉ tiến hóa mà thành.
Khai mở con mắt thứ 3 nhìn thấy nguyên nhân Đức Phật từ bỏ con người
Mà con người lại đi tin vào cái tà thuyết của Darwin, đây thực là điều sỉ nhục nhất và cũng là điều tức cười nhất của con người. Tại sao Đức Phật Thích Ca bỏ mặc con người? Một trong những nguyên nhân chính đó là đại bộ phận con người không còn tin vào sự tồn tại của Thần Phật nữa; Pháp mà Phật truyền lại cũng không độ hóa nổi những loại người này; vì vậy Đức Phật cũng đành phải buông tay không quản nữa.
Thần Phật đại trí đại huệ, đại từ đại bi, có đủ thần thông vô thượng, nhưng cũng có việc mà Thần Phật không thể giải quyết được, đó chính là nhân tâm. Nhân tâm không thay đổi thì Thần Phật cũng không còn cách nào.
Con người hiện đại không còn tin vào Thần Phật; cũng không muốn tu luyện Phật Pháp, nhưng động vật thì không phải như vậy. Động vật không có thể tùng quả, như vậy linh hồn và đại não của nó sẽ không bị phong ấn; trí huệ hoàn toàn khai mở.
Con người tự cảm thấy mình thông minh hơn động vật, nhưng thật ra là các vị thua xa nó. Động vật cái gì cũng đều minh bạch cả; vậy nên động vật chính là trăm phương nghìn kế muốn có được thân người để tu luyện.
Đây chính là tình huống chân thật. Hiện nay rất nhiều người trên thế giới, nhìn thì thấy họ có hình người, cũng nói tiếng người, nhưng họ từ sớm đã không còn là người nữa; mà thực ra chính là linh hồn của động vật bám lên thân người.
Phụ nữ bán dâm đều là có phụ thể của cáo
Những người chủ động đi làm kỹ nữ thì 99% là có phụ thể của cáo. Chúng dùng cách này để đánh cắp tinh huyết của con người. Thời gian trước đây, ở Bắc Kinh từng truy ra một kỹ viện gọi là “thiên đường chốn nhân gian”; những người phụ nữ bán dâm ở đó, toàn bộ đều là hồ yêu phụ thể, đúng là yêu khí ngút trời. Tại sao đến chốn kỹ viện ăn chơi sẽ bị giảm phúc giảm thọ? Chính là vì bên trong đó có quá nhiều yêu quái; chúng dựa vào phương thức này để đánh cắp tinh khí của con người.
Mọi người chắc cũng biết người sống thực vật chứ, nhục thể không bị tổn thương gì, các cơ quan chức năng đều bình thường, nhưng tại sao họ lại không có ý thức tư tưởng? Nguyên nhân là do linh hồn của họ đã tiến nhận vào luân hồi rồi, không còn ở đó nữa.
Có những người sau bao nhiêu năm sống thực lại đột nhiên có thể tỉnh dậy. Tuy nhiên ký ức đã bị mất đi rất nhiều, trí lực cũng suy giảm. Phàm là như vậy thì đa phần đều là do động vật phụ thể.
Yêu ma quỷ quái đang làm loạn thế gian
Có một số động vật mới tu luyện được một thời gian ngắn ngủi, đạo hạnh còn kém, cũng rất vô tri; nó không biết được rằng bám lên thân người rồi là sẽ không xuống được nữa. Hơn nữa trí huệ của nó cũng sẽ bị phong bế. Vì vậy khi nó bám lên thân người thì người thực vật đó liền tỉnh dậy; nhưng trí lực đã bị rớt xuống trầm trọng.
Đương nhiên cũng có những con động vật tu luyện hơn cả trăm nghìn năm; nó có thần thông rất lớn. Lúc này thì dẫu nó có bám lên thân người thì cũng không xuất hiện vấn đề này; xem ra thì tất cả đều rất bình thường. Một người bình thường mà nhìn vào họ thì cơ bản là không thể phát hiện ra được.
***
Những tiết lộ đầy chấn động của vị cao tăng ở trên đã giải thích cho những sự loạn bậy đang xảy ra trong xã hội ngày nay. Con người đã không còn tin vào Thần Phật; đã tự sỉ nhục chính mình khi coi bản thân là từ khỉ tiến hóa thành. Mà cũng vì không tin vào Thần Phật, không tin có nhân quả báo ứng nên con người không điều ác độc xấu xa nào mà không dám làm.
Không chỉ riêng vị cao tăng ở trên, có nhiều người đã khai mở con mắt thứ 3 cũng nhìn thấy một vài tình huống tương tự như vậy.
Theo Tinh Hoa