Mang vết thương thấu não, mảnh đạn còn trong hộp sọ,…; nhưng trên chặng đường dài tìm kiếm, cuối cùng người thương binh đã tìm được phương thuốc chữa khỏi hoàn toàn.
Nội dung chính
Người thương binh mang vết thương thấu não và nỗi lo về sau
Chào các bạn, tôi tên là Nguyễn Hữu Chình, sinh năm 1963, hiện sinh sống tại huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Số điện thoại 090 406 1867.
Quê tôi là vùng thuần nông, cách xa thành thị. Học xong cấp 3, tôi nhập ngũ trở thành người lính. Đến năm 1987, tôi xuất ngũ về tại địa phương với thân phận là thương binh loại 2/4, mất sức lao động 63%. Trên giấy chứng nhận ghi rõ: “Vết thương thấu não, mảnh đạn còn nằm bên trong hộp sọ. Cắt cụt 1/3 dưới cẳng tay phải, gãy xương bàn 2 ngón tay trái, vết thương cổ sau gáy và nhiều vết thương khác”.
Địa phương tôi cũng có nhiều thương binh, có người thương binh nặng, có người thương binh nhẹ hơn. Mỗi khi trái gió trở trời, thời tiết thay đổi, họ đều bị các vết thương hành hạ. Người bị vết thương ở não, mỗi khi trở trời họ có các hành động, lời nói như người điên khùng; vừa tổn thương về thể xác lại thương tổn cả về tinh thần. Tôi rất sợ mình sẽ bị như thế. Nếu điều đó đến thì tôi phải làm sao?
Người thương binh hành nghề bốc thuốc Đông y
Một Lương y tôi rất ngưỡng mộ, ông chỉ dùng các cây kim châm lên người là có thể trị được bệnh. Tôi cũng muốn được như ông. Tôi bắt đầu đọc sách của Thiền sư Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông, Lê Hữu Trác và các sách Thánh Hiền khác. Mục đích tôi học làm thuốc là giúp mình giúp người. Vì tôi biết thuốc Tây y là con dao hai lưỡi, trị được bệnh này thì lại sinh ra bệnh kia.
Năm 1992 tôi bắt đầu hành nghề Đông y. Lúc đầu là bốc thuốc cho mình, sau là vợ con, bố mẹ, rồi đến người ngoài. Những bệnh như phong tê thấp, bệnh dạ dày, bệnh trĩ, bệnh ngoài da… tôi bốc thuốc đều khỏi. Ở vùng nông thôn, tiếng tăm của tôi cũng có chút uy tín.
Những điều học được qua sách cổ nhân đã giúp tôi sống hiền hoà hơn, hoà hợp với tự nhiên, nên tinh thần thoải mái. Cùng với việc tôi tự chữa được cho mình bằng Đông y, nên nhiều năm qua, người thương binh mang nhiều bệnh tật như tôi, chưa bao giờ phải đi viện.
Tuy nhiên, dần dần người nhà tôi mắc nhiều bệnh: Vợ tôi nào bị sỏi thận, bướu cổ bazado lồi mắt, u sơ tử cung, u vú,… chữa Đông y đã không còn hiệu quả triệt để. Trăn trở, tôi muốn tìm kiếm điều gì cao hơn, một phương pháp chữa bệnh hiệu quả hơn nữa, trong sâu thẳm tôi tin chắc là có, chỉ là hiện giờ tôi chưa biết.
Từ Kinh Dịch, phát hiện mọi vấn đề đã có an bài sẵn
Trong sách Lãn Ông có viết: “Trước học Kinh Dịch sau mới học làm thuốc”. Tôi lại tìm hiểu và đọc các sách về Kinh Dịch. Nghiên cứu tôi hiểu được nguyên lý biến hoá của đất trời. Con người cần hoà hợp với tự nhiên thì sẽ có một cơ thể khoẻ mạnh cả về thể chất và tinh thần.
Nghiên cứu sâu Kinh Dịch, tôi càng mở rộng sự hiểu biết của mình. Tôi nghiên cứu thêm Phong Thủy học, Năng lượng sinh học của Nguyễn Đình Phư, Cảm xạ học của Dư Quang Châu, còn cả môn khí công của Nghiêm Tân. Tôi có thể xem bói rất chuẩn xác qua Kinh Dịch; xem địa lý để mồ mả, phong thủy cho người. Tôi chỉ cần biết tuổi của chủ nhà, sau đó nhìn hướng nhà và nơi bố trí ban thờ, nhà bếp, nhà xí là tôi có thể nói ra các vấn đề nhà đó gặp. Tôi có thể bói ra chuẩn xác vận hạn, ngày giờ tốt xấu của đời người, rằng người này sướng, khổ ra sao,… Ở môn nào tôi cũng đạt đến thành quả nhất định.
Sau nhiều năm hành nghề, tôi nhận ra, dường như tất cả mọi sự việc, kể cả vận mệnh mỗi người đều có an bài sẵn, không ai có thể thay đổi được số phận của mình. Vậy làm sao để thay đổi được an bài đó?
Tôi tiếp tục đi tìm câu trả lời. Từ bé, tôi đã có xu hướng muốn tu luyện, nên tôi hay sưu tầm, xem các cách hướng dẫn người ta tu luyện. Đến lúc này, tôi muốn tìm sang con đường tu luyện.
Thờ Tứ Phủ
Tôi không hiểu tu luyện là thế nào. Quê tôi có chùa nhưng không có sư, chỉ có phong trào thờ Tứ phủ, nên tôi đã theo người ta thờ Tứ Phủ. Mục đích của tôi không phải cầu danh, cầu lợi mà chỉ muốn tu luyện. Nơi thờ tự của tôi là trên gác xép. Tôi ít khi dẫn người khác lên chỗ tôi thờ tự. Không mấy người biết được tôi thờ Tứ phủ. Người gọi là có “căn, giá” đến nhà tôi chơi, họ cứ tự tay tát vào mặt hoặc vả vào mồm của mình. Họ không biết tôi thờ Tứ phủ và tôi cũng không nói cho họ biết. Mỗi khi có người bị như thế, tôi chỉ khuyên bảo họ sống phải coi trọng đức và làm nhiều việc thiện lành thì họ nhanh chóng qua khỏi “sự trừng phạt” ấy…
Quá trình thờ Tứ phủ, tôi cũng nhận ra một vấn đề: “chết chưa phải là hết”. Điều đó, khiến tôi lại trăn trở: “Vậy, sau cái chết là cuộc sống như thế nào…?”
Hai năm sau khi thờ Tứ phủ, tôi mua được cuốn Chư Kinh nhật tụng. Trong đó có Kinh: Phật thuyết Kinh A Di Đà. Tôi tụng niệm hàng ngày cùng với việc thờ Tứ phủ. Sau thời gian khoảng hai năm thì tôi đã bỏ thờ Tứ phủ (chỉ bỏ Tứ phủ, còn các môn khác vẫn đồng thời thực hành), chuyên tu Pháp môn Tịnh Độ.
Người thương binh trở thành cư sỹ Tịnh Độ tông
Trong tu luyện Phật giáo, thông qua tụng đọc các cuốn kinh sách của Phật Thích Ca, tôi thấy có nhắc đến niệm Phật hiệu A Di Đà, có thể đến thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà. Tôi xuất nguyện muốn thoát khỏi tam giới. Tôi cho rằng pháp môn Tịnh Độ là môn tu cao nhất, nhanh nhất và chắc chắn nhất. Từ đó, tôi trở thành Cư sỹ Tịnh Độ tông của Phật giáo.
Tôi ra sức hoằng dương Tịnh Độ trong khu vực.Tôi lập ra Ban hộ niệm Sen Vàng (đã có tên trong danh sách những ban hộ niệm toàn quốc của GHPG VN). Tôi chuyên đi hướng dẫn cho những người ốm, những người sắp chết và những người đã chết hướng về Phật A Di Đà và niệm danh hiệu của Ngài cầu vãng sinh về Thế Giới Cực Lạc của Ngài.
Những sự việc xảy ra khi là Cư sỹ Tịnh Độ tông
Vong nghe hiểu đạo lý
Tôi tham gia nhiều Pháp hội Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm cầu quốc thái dân an do GHPG tổ chức và cả các khóa tu niệm Phật. Trong những buổi như vậy, các vong về nhập vào người tham dự rất nhiều. Họ khóc lóc thảm thiết, kêu khổ lắm, khổ lắm, nhưng không cách nào thoát ra được. Họ tới cầu cứu người còn đang sống giúp họ. Nhiều người đã tới dỗ dành khuyên họ, nhưng họ không chịu đi vẫn khóc lóc kêu than.
Mỗi khi như vậy, mọi người lại tìm tôi đến giúp. Tôi nói cho họ (các vong) về luật nhân quả, tự làm tự chịu. Nếu muốn thoát khỏi khổ ải này thì phải thành tâm hướng Phật, sửa sai lỗi lầm, hành thiện tu đức và chỉ có Phật mới cứu được. Sau khi nghe tôi nói những đạo lý này, các vong không khóc, không nhập vào người ta nữa. Tôi không nhìn thấy họ nên tôi không biết là họ có được vãng sinh hay không. Việc này diễn ra nhiều lần như vậy.
Có những người chúng tôi hộ niệm cho họ lúc lâm chung. Căn cứ theo những thoại tướng trước và sau khi chết, đối chiếu với những điều được ghi trong các sách Tịnh Độ thì những người này đã được vãng sinh về Tây Phương Cực Lạc. Tuy nhiên, khi Pháp hội niệm Phật mở ra, tôi thấy vong người ấy nhập vào người ta, nói rõ: “Tôi chưa có được vãng sinh”.
Người tu các pháp môn khác có thật sự được vãng sinh hay vẫn hoàn trả nghiệp?
Trong những người tu Tịnh Độ ở Việt Nam, hầu hết đều được xem video vãng sinh của bà Lưu Tố Thanh (chị của bà Lưu Tố Vân – người tu nổi tiếng môn Tịnh Độ ở Đài Loan). Video kể về cuộc vãng sinh của bà Thanh được bà báo trước nửa tháng. Gần giờ vãng sinh, tinh thần của bà Thanh tỉnh táo, minh mẫn, các dấu hiệu đúng như bà nói trước đó. Bà nói: “Bà đã đứng trên đài sen, bên cạnh Phật A Di Đà rồi”.
Nhưng sau thời điểm vãng sinh lại là một bà Thanh hoàn toàn khác. Từ một bà Thanh tỉnh táo, không đau đớn thành một bà Thanh hôn trầm, mê mờ, đau đớn cùng cực. Ngay cả em bà là Lưu Tố Vân cũng khó cầm lòng trước sự khổ sở của bà… Phải hơn một ngày sau đó bà Thanh mới tắt thở hoàn toàn.
Xem xong video tôi rất hoang mang và không lý giải được. Một bà Thanh vãng sinh rồi, sao lại còn một bà Thanh đau đớn cùng cực như vậy? Sao đã vãng sinh rồi lại còn sống thêm hơn một ngày nữa mới tắt thở hẳn?
Tôi không có câu trả lời, mãi đến khi tôi đọc cuốn Chuyển Pháp Luân, tôi mới minh bạch. Hóa ra, người vãng sinh, đứng cạnh Phật A Di Đà không phải chủ nguyên thần thật sự của bà Thanh. Người làm chủ thật sự vẫn còn ở thân xác thịt kia. Nó vẫn phải hoàn trả những nghiệp nợ mà mình tạo ra… Bởi năng lực của pháp môn đó không thể độ, không mang đi được chủ thể thực sự của thân xác thịt này…
Mệt mỏi sau chặng đường dài tìm Đạo
Chặng đường dài hơn 20 năm, tôi mang tâm nguyện cứu mình, cứu người thân đã không từ khó khăn, gian khổ, kiên định một lòng đi tìm Đạo. Dù là cư sỹ Tịnh Độ – pháp môn được coi là con đường “tha lực”, tốt nhất, ngắn nhất nhưng những câu hỏi không ngừng đặt ra, những khoảng trống không có lời giải cho con đường vĩnh hằng của sinh mệnh.
Đúng là mệt thân, tốn tiền, phí thời gian mà hiệu quả thu được chẳng có gì. Sức khỏe bản thân không những không được cải thiện mà còn xuất hiện nhiều bệnh tật khác nữa. Bệnh viêm mũi dị ứng, gai đôi cột sống, thần kinh tọa, đau mỏi các khớp, thoái hóa đốt sống cổ và đốt sống lưng… Người thân của tôi từng người một bệnh tật phát sinh. Tôi trở nên chán nản vô cùng, tâm tính của tôi bắt đầu có vấn đề…
Pháp môn cần tìm đã mang đến tận nhà mà không hay
Trong hai năm 2011 và 2012 có người giới thiệu Pháp Luân Đại Pháp cho tôi, nhưng tôi không theo vì còn mải mê, ảo tưởng vào môn tu Tịnh Độ. Sau này tu luyện Đại Pháp rồi tôi vô cùng tiếc nuối khoảng thời gian đó.
Người đó đã không bỏ cuộc và hồng Pháp cho tôi lần thứ ba. Tết Nguyên đán năm 2013, học viên đó đến chúc Tết. Cháu tặng cho tôi cuốn sách Chuyển Pháp Luân của Pháp Luân Công.
Đọc xong cuốn Chuyển Pháp Luân, tôi như bừng tỉnh. Đây mới là Pháp môn tôi cần tu. Từng lời trong sách của Đại sư Lý Hồng Chí như khai sáng tất cả cho tôi. Tôi đã minh bạch những hiện tượng vong nhập; cũng trả lời được vì sao vong nói chưa được vãng sinh; hay hiện tượng hai bà Thanh khác biệt như nói ở trên. Phật, Đạo, Thần đều có, mọi vạn sự vạn vật, tầng tầng không gian, tầng tầng Phật đều có,… Và vì sao mắt người không nhìn thấy. Vì sao con người có bệnh. Muốn thoát khỏi bệnh tật thì phải làm gì…
Tôi lại càng minh bạch tu luyện chân chính thật sự là gì. Các Kinh sách trong Phật giáo tôi đọc, các Hòa thượng, các giảng sư và những người thuyết Pháp tôi đã nghe cũng không giúp tôi minh bạch được “tu luyện” là gì. Chỉ có Sư Phụ Lý, ngay trong vài dòng đầu của Bài giảng thứ nhất đã chỉ rõ “tu luyện” là thế nào… Tôi quyết định từ đó chỉ tu luyện Pháp Luân Đại Pháp.
Thân thể người thương binh chuyển biến kỳ diệu
Tôi nghiêm túc chiểu theo Chân – Thiện – Nhẫn để hành xử trong cuộc sống hàng ngày. Pháp đã không ngừng chính lại những điều không đúng đắn cả thân lẫn tâm của tôi. Các tư tưởng xấu xa, những hành động bất hảo, những bệnh tật mà các môn tu luyện trước đây không làm được, thì nay chỉ qua vài tháng ngắn ngủi tu luyện Đại Pháp, chúng đã không cánh mà bay. Tôi trở thành một người hoàn toàn khác. Nhẫn nại, hòa ái, không nóng, không giận, không tranh với đời; làm gì, nói gì đều cân nhắc, nghĩ đến người khác; bỏ đi cái tôi, tôn trọng, hết lòng vì mọi người, bất luận ai có đối xử không tốt với tôi…
Những căn bệnh trên thân người thương binh vốn lo lắng bao nhiêu năm qua thì nay chỉ tập công trong thời gian ngắn ngủi, tôi đã có một thân thể vô bệnh, hoàn khỏe mạnh. Mảnh đạn trong hộp sọ, vết thương thấu não không còn hiện tượng đau khi trở trời. Dường như vết đạn ấy tôi không thấy hiện hữu. Không chỉ có vậy, thân thể tôi trẻ hóa lại. Sau 9 năm tu luyện, nhìn ngoại hình của tôi không ai nghĩ tôi đã 60 tuổi. Vợ con tôi cũng bước vào tu luyện và khỏi hết bệnh…
Hàng xóm họ nói chuyện với nhau. Tâm truyền tâm, người truyền người về những lợi ích gia đình tôi đạt được khi tu luyện Đại Pháp, khiến cho nhiều người chủ động đến xin cùng được tu luyện Đại Pháp.
Người thân khỏi hết bệnh khi tu luyện Đại Pháp
Bệnh bướu cổ zađô (ác tính), sỏi thận, u xơ tử cung thường xuyên rong huyết, u vú, bệnh trĩ và nhiều bệnh khác của vợ mà chúng tôi đã tốn rất nhiều tiền chữa trị y tế đều không khỏi. Nhưng khi cô ấy tập Pháp Luân Công vài tháng ngắn ngủi thì những bệnh trên đã không cánh mà bay. Vợ tôi bây giờ hoàn toàn khỏe mạnh, làm việc đồng áng không thấy mệt.
Con trai tôi bị nhược thị khi cháu đang học lớp 6. Chúng tôi chữa trị cho cháu tại Bệnh viện Mắt trung ương tận đến khi cháu học lớp 11 nhưng không có hiệu quả và phải dừng lại. Khi tôi đắc Đại Pháp được ba tháng, tôi khuyến khích cháu tu luyện Đại Pháp. Mấy tháng sau, không những thị lực được phục hồi mà lực học của cháu từ trung bình vươn lên loại giỏi. Cháu thi đỗ vào trường đại học Bách khoa Hà Nội với số điểm cao.
Mẹ tôi trên 80 tuổi. Năm 2013, bà bị tràn dịch màng phổi nặng, hai lá phổi đều đen, có nhiều chỗ xơ hóa…. Bà đọc được vài trang sách là mắt mỏi, thân thể phản ứng khó chịu. Khi bà cố gắng đọc hết cuốn sách, dần dần sức khỏe tiến triển tốt lên. Đến nay bà rất khỏe mạnh.
Tháng 7/2014, cháu ngoại tôi chào đời nhưng mặt cháu bị chàm đen hết nửa khuôn mặt. Sau khi cho cháu nghe liên tục bài giảng Sư phụ, vết chàm đen mờ dần; sang ngày thứ hai mất hẳn, ngày thứ ba, da dẻ của cháu trở nên trắng trẻo. Những người được chứng kiến đều thốt lên: “Đây là điều không tưởng, thật kỳ diệu!”.
Lời kết
Trên đây chỉ là những phần mà gia đình tôi được hưởng lợi ích từ Đại Pháp tôi mô tả được bằng lời; còn có rất nhiều điều khác nữa tôi không thể diễn tả hết được.
Thời đại hiện nay, Chính Pháp khó gặp, tà pháp quá nhiều. Tu trong cõi mê này biết phân biệt đâu là Chính đâu là Tà, khó lắm thay. Tất cả đều phải ngộ trong mê. Ngay cả các môn tu luyện Chính Pháp trước đây, cũng đã tiến vào thời kỳ mạt Pháp từ lâu rồi, không còn Pháp giúp người ta tu viên mãn nữa. Tuy nhiên, như nhiều dự ngôn đã nói, “thời mạt kiếp, khi vạn ma xuất thế cũng là lúc Phật Chủ hạ thế độ nhân”.
Tôi – một người thương binh, đã trải qua chặng đường dài tìm Đạo, cuối cùng may mắn đắc Chính Pháp, đang trên con đường tu luyện. Những gì bản thân tôi và gia đình tôi được hưởng chính là lời khuyên có ý nghĩa nhất cho những ai quan tâm đến sức khỏe, tu luyện…