Vợ chồng là do nhân duyên trời định, tưởng như tình cờ gặp gỡ, nhưng đều không phải là ngẫu nhiên, từ nơi xa xăm đã có an bài.
- Vợ chồng đến được với nhau là do nhân duyên trời định
- Một ngày vợ chồng, trăm ngày ân nghĩa – câu chuyện cảm động với bao người
Nội dung chính
Mộng thấy nhân duyên
Trịnh Hoàn Cổ, học sĩ viện Thái Học thời Đường Văn Tông đã đính ước với con gái của Hình bộ thượng thư Lưu Công. Hôn sự đã được sắp xếp đâu vào đấy. Một đêm nọ, Trịnh Hoàn Cổ cùng với đạo sĩ Khấu Chương tá túc ở huyện Chiêu Ứng. Vào lúc giữa đêm thì Trịnh Hoàn Cổ mộng thấy mình ngồi trên một chiếc xe và chạy qua ba cây cầu nhỏ. Sau đó xe chạy đến một ngôi nhà nằm phía sau chùa. Anh nhìn thấy mình và một cô nương đang cử hành hôn lễ và người chủ lễ mang họ Phòng.
Sau khi tỉnh dậy, Trịnh Hoàn Cổ đã kể lại toàn bộ giấc mơ cho Khấu Chương nghe, rồi lấy giấy bút ghi chép lại sự việc này. Khấu Chương nói: “Vào thời điểm sắp kết hôn mà ngẫu nhiên nằm mơ như vậy thì cũng không có gì là lạ”.
Nhân duyên trời định từ trước
Sau đó thì Lưu thị, vợ của Trịnh Hoàn Cổ qua đời. Mấy năm sau, Trịnh Hoàn Cổ kết hôn với cô nương họ Lý đến từ Đông Lạc. Hôn lễ của họ đúng là được tổ chức tại vườn nhà phía sau ngôi chùa ở huyện Chiêu Ứng. Ngày hôm đó Trịnh Hoàn Cổ đã đi qua ba cây cầu như đã thấy trong giấc mộng trước đây.
Lúc đó Phòng Trực Ôn đảm nhiệm chức quan huyện Đông Lạc, ông cũng là bạn cũ của gia đình họ Lý. Nghi thức hôn lễ vậy là đều do Phòng Trực Ôn đứng ra chủ trì. Như vậy vị chủ hôn cũng đúng là họ Phòng như anh đã từng mơ thấy. Lúc bấy giờ Trịnh Hoàn Cổ mới hiểu ra giấc mơ năm đó là dự báo cho ngày hôm nay. Anh đã kể lại giấc mơ đó cho mọi người nghe, khách mời ai nấy đều không khỏi cảm thán.
Duyên cũ gặp lại
Một chuyện khác kể rằng Chu Hiển là quan chuyên quản việc sổ sách ở vùng Xạ Hồng. Ông được đính ước với cô gái Đỗ thị, là con gái của Đỗ Tập, huyện lệnh của huyện Bì nhưng 2 người chưa hề gặp mặt.
Sau đó cô nương Đỗ thị đã bị bắt vào trong cung của Hoàng đế. Còn Chu Hiển đến Bành Châu làm quan. Một thời gian sau Chu Hiển nhờ bạn bè tìm giúp ý trung nhân. Thông qua giới thiệu, anh đã kết hôn với cháu gái nhà họ Vương.
Sau hôn ước, Chu Hiển nói với thê tử: “Lúc đầu ta muốn kết hôn cùng cô nương họ Đỗ. Chúng ta đã làm giấy hôn ước xong xuôi. Nhưng vì gia cảnh của ta bần hàn, làm sao dám đảm nhận danh nghĩa và trách nhiệm con rể được, rồi cô ấy được đưa vào cung?”.
Cháu gái họ Vương nghe vậy thì thở dài nói: “Thiếp chính là Đỗ thị đây. Họ Vương là họ sau này của thiếp. Kể từ khi xuất cung, thiếp không có nơi nương tựa nên nhà họ Vương đã cưu mang thiếp”.
Chu Hiển nghe xong mừng mừng tủi tủi, vậy là đã gặp được người xưa đính ước. Về sau, tình cảm của hai vợ chồng càng thêm mặn nồng.
Mối nhân duyên từ bài thơ trên lá
Một câu chuyện khác kể về Hầu Kế Đồ, Thượng thư thời Tiền Thục xuất thân từ một gia đình trí thức; cả ngày lúc nào cũng cầm sách trên tay, miệng không ngừng ngâm thơ. Anh thường hay lui tới chùa Đại Từ ở Thành Đô.
Vào một ngày mùa thu năm nọ, Hầu Kế Đồ nho nhã bước lên lầu trên của chùa Đại Từ. Đang lúc anh tựa vào lan can thưởng ngoạn cảnh sắc mùa thu thì một chiếc lá đột nhiên rơi xuống, trên mặt chiếc lá có đề một đoạn thơ:
“Thí thúy liễm song nga, vi uất tâm trung sự.
Nhược quản hạ đình thu, thư thành tương tư tự.
Thử tự bất thư thạch, thử tự bất thư chỉ.
Thư hướng thu diệp thượng, nguyện trục thu phong khởi.
Thiên hạ phụ tâm nhân, tận giải tương tư tử.”
Dịch nghĩa:
“Chau mày vì tâm phiền trong thế sự.
Chiếc lá mùa thu rụng trong sân, đề thơ bày tỏ nỗi niềm.
Thơ không viết trên đá, cũng không viết trên giấy.
Thơ viết trên lá, chiếc lá cuốn xoay theo làn gió thu.
Thiên hạ phụ lòng người, tận giải nỗi lòng không còn mong chờ gì.”
Hầu Kế Đồ nhặt chiếc lá cất vào trong hộp. Vài năm sau anh kết mối lương duyên với cô nương họ Nhâm hiền thục đoan trang.
Nhân duyên trời định, dẫu xa xôi mấy cũng sẽ tương phùng
Một hôm, Hầu Kế Đồ ngâm bài thơ được viết trên lá. Nhâm thị nghe xong ngạc nhiên hỏi: “Đây là bài thơ thiếp viết trên lá cây ở Tả Miên (nay là Miên Dương), làm sao mà chàng lại biết được?”.
Hầu Kế Đồ nghe xong thì rất kinh ngạc, mới bảo thê tử viết xuống toàn bộ bài thơ. Kết quả là bài thơ thê tử viết xuống giống như đúc với bài thơ được viết trên lá cây khi xưa mà anh đã nhặt được. Vậy là bài thơ như sự kết nối giữa hai người.
***
Hôn nhân trong xã hội truyền thống là do cha mẹ định đoạt thông qua lời mai mối. Xã hội hiện đại thì đề cao tự do tình cảm. Tuy hình thức có khác nhau, nhưng duyên phận vợ chồng vốn đã là được định trước, cũng đều do Nguyệt Lão dùng dây tơ hồng buộc chặt hai người lại với nhau.
Vì hiểu là nhân duyên trời định nên vợ chồng sống hòa thuận với nhau đến bạc đầu răng long. Đây cũng là đang tôn trọng sự sắp đặt của Thần.
Theo Minh Huệ