Người xưa có câu “trăm năm mới đặng chung thuyền, ngàn năm mới đặng nên duyên vợ chồng”. Vợ chồng đến với nhau là duyên nợ, là do thệ ước của người này với người kia. Cuộc sống là luân hồi, không đơn giản như những gì mắt trần này nhìn thấy được.
Tôi và vợ không cùng quê. Tôi quen cô ấy trong một khoảng thời gian tôi ở trong tình trạng chán nản. Sau này trải qua bao nhiêu trở ngại, chúng tôi mới kết thành vợ chồng. Trong tâm tôi luôn cảm thấy mình nợ cô ấy rất nhiều. Vợ tôi có tính dựa dẫm vào tôi. Nếu một ngày không nhìn thấy tôi thì tâm thần bất an, đứng ngồi không yên. Tôi cảm thấy mối nhân duyên vợ chồng này thật lạ. Sau ngày 20/7/1999, chúng tôi may mắn bước vào tu luyện. Khi mới tu luyện, Sư phụ đã giúp tôi khai mở một số ký ức ở những đời trước.
Vợ tôi cũng vì thế mà thường hỏi: “Kiếp trước em và anh rốt cuộc là có quan hệ nhân duyên thế nào? Anh không thể xem một chút sao?” Tôi nói với cô ấy rằng điều này không thể cưỡng cầu mà biết. Vào một buổi tối trong một lần thiền định, tôi vượt qua không gian và thời gian của luân hồi. Trở về hơn một nghìn năm trước, tôi đã thấy được mối quan hệ giữa 2 người chúng tôi, khiến tôi và cô ấy phải nên duyên vợ chồng.
Là người tu hành, tôi đã không màng đến duyên vợ chồng
Trong kiếp đó, tôi là một người tu hành. Sau nhiều năm xuống núi vân du, tôi trở về ngôi chùa cũ có tên là Vĩnh Hoa. Lúc đó sư phụ đã viên tịch rồi, bởi vậy chúng tăng trong chùa chọn tôi lên làm trụ trì. Không lâu sau tôi bắt đầu lập đàn giảng kinh tuyên dương Phật Pháp. Khi đó tôi chưa đến 30 tuổi, mọi người hay gọi đùa tôi là “tiểu phương trượng”.
Với uy tín ngày càng tăng, hương hỏa trong chùa ngày càng thịnh vượng. Khách hành hương, những người muốn biết về đạo đến hỏi tôi ngày càng nhiều. Tôi đều tận tình trả lời họ. Một hôm, một nhà giàu họ Lý dẫn theo người nhà, tiện đường liền lên núi thắp hương kính Phật.
Vì nghe nói tôi tu luyện trong Phật Pháp đạt được trình độ nhất định nên ghé vào thăm. Ông mang cho chúng tăng một ít đồ lễ. Đi cùng còn có con gái của ông, dáng vẻ khoảng 16~17 tuổi, dung mạo đoan trang. Cô nhìn thấy những câu kệ tôi viết liền cầm lên xem hồi lâu. Cô chợt hỏi chuyện một cách tò mò, tôi khiêm tốn trả lời từng câu hỏi.
Sau đó họ phải lên đường, khi từ biệt tôi mới phát hiện ánh mắt của Lý tiểu thư không rời khỏi tôi. Ánh mắt đó từ trước đến giờ tôi chưa từng thấy. Bỗng nhiên tôi thấy chấn động, tâm tư suy nghĩ bất định. Tôi tự nhủ: “Ta tu hành từ nhỏ đến nay, tự nghĩ định lực bản thân không hề nông cạn, làm sao trước nữ sắc lại thất bại thế này?”.
Người đâu gặp gỡ làm chi
Từ hôm đó, nhiều ngày khi đả tọa không thể nhập định được. Những suy nghĩ bất chính liên tiếp đến; dần dần phải qua thời gian dài mới có thể chế phục được tâm ma này. Sau đó tu luyện trong Phật Pháp không dám có chút buông lơi nữa.
Một năm sau, có người vội vã mang đến một bức thư. Thì ra là thư của người nhà giàu họ Lý. Tôi vừa mở ra xem, liền toát mồ hôi lạnh, vội vàng niệm Phật hiệu. Trong thư viết tiểu thư họ Lý từ sau khi ở chùa trở về một thời gian thì ngã bệnh. Mời thầy thuốc mà tìm không ra nguyên nhân căn bệnh. Tiểu thư không nói, người nhà cũng không tìm được phương thuốc nào.
Sau này mới ít nhiều biết được là vì tương tư tôi nên thành bệnh. Họ nghĩ tôi là người tu Phật, chuyện này chẳng phải trò cười hay sao? Vì sức khỏe tiểu thư ngày càng nguy kịch, người họ Lý đành phải mời tôi từ bi xuống núi thăm con gái ông.
Việc cứu người là khẩn cấp, do đó tôi vội vàng thu xếp công việc và đồ đạc rồi theo người đưa thư. Sau nhiều ngày thì đến được Lý phủ. Lý viên ngoại trong lòng nóng như lửa đốt, nhìn thấy tôi đến bèn vui mừng ra đón. Dường như đã có người sớm báo cho tiểu thư, viên ngoại ở bên ngoài gọi tiểu thư: “Con gái, con xem ai đến này”.
Không nên duyên vợ chồng, tiểu thư rời cõi trần mang theo tâm nguyện
Tôi vội vàng thi lễ, ra hiệu cô ấy không nên cử động nhiều, sau đó tôi giảng giải về Phật Pháp. Tôi muốn cô ấy vượt qua chướng ngại tình cảm nam nữ, nhưng cô ấy tựa như nghe mà không nghe. Lúc sau hỏi tôi: “Cao tăng, kiếp này ngài và tôi không thể đến được với nhau ư?”
Tiểu thư từ từ ngồi dậy khỏi giường, nét mặt ửng hồng, khe khẽ hỏi tôi: “Cao tăng, ngài đã biết rồi sao?” Lời nói có vẻ mệt mỏi, cơ thể biểu lộ ra vẻ yếu ớt.
Tôi liền đưa hai tay hợp thập, làm lễ nói: “Đúng vậy, tuyệt đối không thể được!”
Nước mắt lăn dài trên má, một hồi lâu sau cô ấy chỉ vào gói đồ trên bàn và nói: “Hôm nay gặp nhau, không biết khi nào mới lại tương phùng. Tôi tặng ngài một bó tơ lụa làm đồ cung dưỡng, mong cao tăng nhận cho.” Tôi ấp úng nói: “Cái này…” Dáng vẻ của cô ấy làm tôi không nỡ cự tuyệt: “Vậy bần tăng xin nhận, cảm tạ nữ thí chủ, bần tăng xin cáo từ, xin nữ thí chủ an tâm nghỉ ngơi dưỡng bệnh, đọc nhiều kinh Phật, sức khỏe sẽ sớm hồi phục.”
Một niệm trước khi rời cõi trần, kết quả của nghìn năm sau
Thấy cô ấy lặng im, tôi liền quay người bước ra khỏi phòng. “Cao tăng xin hãy thong thả”, tiểu thư ở sau lưng tôi gọi. Tôi quay người lại: “Nữ thí chủ vẫn còn việc gì muốn nói hay sao?”
Ánh mắt cô gái lộ vẻ kỳ lạ: “Nếu đời này ngài tu không thành thì sao?” Tôi đáp lời cô ấy: “Nếu đời này ta không tu thành, đời sau vẫn tiếp tục làm tăng”. Tiểu thư đáp: “Nếu đã như vậy, dải lụa này xin làm tín vật, kiếp sau tôi lại lên chùa tìm ngài.” Nói xong tiểu thư quay người đi vào trong.
Nghe nói sau khi tôi rời khỏi đó không lâu, Lý tiểu thư đã qua đời trong sầu não. Việc này đã khuấy động cả một đời của tôi, quả nhiên trong kiếp đó tôi tu không thành.
Chớp mắt đã đến đời sau, tôi quả nhiên lại chuyển sinh thành hòa thượng. Tôi lại đến chùa Vĩnh Hoa tiếp tục làm trụ trì. Thấm thoắt mấy năm trôi qua, một tối khi tôi đả tọa nhập định, bỗng nhiên trước mắt hiện lên một khoảng không rõ ràng. Rồi công năng túc mệnh thông xuất hiện; tôi biết được mình là phương trượng đời trước chuyển thế và cũng biết được chuyện gì sắp xảy ra.
Bằng chứng báo trước về duyên nợ vợ chồng
Sau khi xuất định chỉ biết thở dài than rằng: “Định số! Đúng là định số!” Ngày hôm sau, người đến hành hương rất đông, đến trưa nghe thấy phía bên ngoài cổng chùa có tiếng truyền vào, trong tâm tôi máy động: “Đến rồi, cuối cùng cũng đã đến!”. Lát sau, các khách tăng dẫn người có dáng vẻ là quan viên đi vào đại điện, lễ Phật xong ở trong phòng khách mời tôi tiếp đón.
Vị quan viên vừa thấy tôi liền nhìn kỹ trên dưới, rồi không ngừng gật đầu: “Quả đúng như thế, quả đúng như thế!”
Hai tay tôi hợp lại trước ngực: “Xin hỏi đại nhân từ đâu đến? Đến có việc gì?”
Người đó bỗng như giật mình tỉnh giấc, trả lời: “Ta đến từ Trường An, vì con gái mà đến tìm người.” Tôi nói: “Tìm người ư? Trường An cách Vĩnh Hoa tự cả trăm dặm, làm sao có người cô ấy cần tìm được?” Các khách tăng đều cảm thấy kỳ lạ.
“Là như vầy…” Người đó giải thích: “Ta có một cô con gái, nó giống như viên minh châu trong tay vợ chồng ta. Chẳng mấy chốc đã đến tuổi kết hôn, có rất nhiều người nó cũng thấy vừa mắt. Một hôm nó mơ thấy chồng mình là người nơi cửa Phật. Hơn nữa kiếp trước từng có ước hẹn; cụ thể hiện giờ ở chùa nào, dáng vẻ ra làm sao, còn có tín vật làm chứng, nói rõ ràng mười mươi”.
“Ta cũng là người tin Phật, mặc dù bán tín bán nghi, ta vẫn muốn đến trước để hỏi dò và nghe ngóng xem sao, không ngờ quả thật rất đúng với lời con gái nói, không sai chút nào.” Các sư đệ bên cạnh nghe không lọt nữa, tức giận nói: “Vớ vẩn, phương trượng chúng tôi là cao tăng đắc đạo. Sao lại có thể giống lời ông nói được chứ?”
Duyên vợ chồng rồi cũng đến lúc phải kết
Tôi đưa tay lên ra hiệu bảo họ đừng nói nữa. Tôi vào nhà kho mở hòm gỗ của phương trượng tiền nhiệm để lại. Khi lấy ra gói đồ để lâu đã bị bụi phủ kín, cảm xúc tôi dâng trào. Trở lại phòng khách, đặt gói đồ lên bàn, tôi nói với vị quan viên: “Đây chính là tín vật mà con gái ngài nói. Đó là di vật của tổ sư.”
Lúc này các tăng nhân trong chùa tụ lại ngày càng đông. Có người chen vào trong phòng, đứng không được liền chen lên bên cửa sổ, chen nhau mà thở. Họ hiếu kỳ chăm chú vào mọi việc xảy ra ở đây. Vị quan viên nói: “Vậy thì ngài hãy mở gói đồ đó ra xem xem.” Mọi người lần lượt hướng ánh mắt về phía tôi.
“Được rồi”. Tôi nhẹ nhàng mở gói đồ ra, quả nhiên là một bó vải lụa màu trắng, mọi người đều ngạc nhiên. Bỗng nhiên dải lụa đó phát ra ánh sáng nhạt, các tăng nhân cùng tụng niệm Phật hiệu, phủ phục xuống quỳ lạy. Lúc lâu sau, mọi người mới giật mình tỉnh lại. Vị quan viên đó nói với tôi: “Nếu tất cả đều là sự thật, thì xin cao tăng thu xếp rồi cùng tôi lên đường vào phủ chọn ngày để cùng tiểu nữ hoàn thành hôn sự. Con gái tôi kết hợp với ngài đúng là ‘trai tài gái sắc’”.
Chỉ một niệm muốn tu luyện theo chính Pháp
Cả đại điện bỗng chốc tĩnh lặng, mọi người đều tỏ ra vô cùng lo lắng. Tôi suy nghĩ một lúc rồi chỉnh lại tăng y. Tôi ngồi ngay ngắn trên chiếc bồ đoàn, tay lần chuỗi Phật châu niệm một đoạn dài Phật hiệu. Nước mắt lăn dài xuống, tôi cảm thấy một cảm giác đau thương: “Là nợ nghiệp kiếp trước, làm ta hai đời không thể giải thoát được. Ta đành đoạn dứt từ đây, đợi đến khi đắc lại chính Pháp vậy!”. Nói xong tự mình làm tọa hóa mà rời đi (tọa thiền cho đến khi viên tịch).
Đây chính là quan hệ nhân duyên giữa tôi và vợ. Trải qua luân hồi hàng nghìn năm, trong đời này chúng tôi đều sinh ra trong gia đình nghèo khó. Nơi trần thế mênh mông này tiền duyên lại nối tiếp. Mặc dù xa cách nghìn dặm nhưng cuối cùng chúng tôi cũng đến với nhau. Nhưng đời này chúng tôi đều cùng là người tu luyện. Chúng tôi cùng tu trong Pháp Luân Đại Pháp.
Theo Chánh Kiến